Các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy ứng cử viên đảng Dân chủ Kamala Harris có lợi thế ít hơn về số phiếu phổ thông so với ứng cử viên đảng Cộng hòa Donald Trump. Tuy nhiên, do hệ thống đại cử tri đoàn của Mỹ, kết quả sẽ được xác định bởi các tiểu bang dao động – nơi cả hai ứng cử viên đều có số phiếu rất sát sao. Do đó, cuộc bầu cử vẫn còn quá sít sao để có thể dự đoán.
Các chính sách ông Trump mong muốn hầu hết đều mang theo rủi ro lạm phát
Nhiều thảo luận đã được thực hiện về khả năng gây ra lạm phát tiềm ẩn từ những chính sách kết hợp mà ông Trump mong muốn. Trong quá trình vận động tranh cử, ông Trump đã ủng hộ một loạt các biện pháp thuế quan leo thang.
Những mức thuế này dao động từ mức tăng đáng kể thuế quan thương mại đối với Trung Quốc lên 60%, đến mức thuế trừng phạt 200% đối với xe nhập khẩu từ Mexico. Những mức thuế này sẽ được cộng vào mức thuế quan chung mà ông đề xuất là 10% đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ.
Ông Trump cũng đã gợi ý rằng thuế quan thương mại có thể được sử dụng để chi trả cho việc cắt giảm thuế. Ông muốn các công ty sản xuất hàng hóa tại Mỹ sẽ trả mức thuế ưu đãi là 15%, giảm từ mức 21% hiện tại.
Tuy nhiên, điều này có thể gây ra lạm phát, vì việc gia tăng thuế quan thương mại của ông sẽ dẫn đến giá hàng nhập khẩu cao hơn.
Ông Trump cũng muốn hồi hương và trục xuất những người nhập cư bất hợp pháp – một ý tưởng có thể thắt chặt thị trường lao động và đẩy tiền lương lên cao, tạo ra một áp lực gây ra lạm phát khác.
Trên bề mặt, các chính sách mà ông đề xuất có thể kéo dài chu kỳ tăng trưởng mạnh hơn dự kiến của nền kinh tế Mỹ.
Tuy nhiên, các chính sách này, ngay cả khi chỉ được thực hiện một phần, cũng có thể gây ra lạm phát cho nền kinh tế Mỹ. Viện Kinh tế Quốc tế Peterson đã cảnh báo rằng các đề xuất thuế quan của Trump có thể khiến một hộ gia đình Mỹ điển hình phải trả hơn 2.600 đô la Mỹ một năm.
Mức lạm phát cao hơn này có thể dẫn đến một lộ trình cắt giảm lãi suất ít hơn từ Fed so với dự đoán của thị trường.
Hiện tại, chúng tôi kỳ vọng lãi suất Quỹ Liên bang sẽ giảm từ 5 phần trăm hiện tại xuống còn 3,5% vào cuối năm sau. Nhưng dự báo này có thể còn nhiều bất ổn nếu ông Trump trở lại nắm quyền.
Các chính sách kinh tế bà Harris đề xuất có mục tiêu cụ thể hơn và ít cực đoan hơn
Ngược lại với ông Trump, ứng cử viên đảng Dân chủ Harris cho đến nay đã phác họa các chính sách mong muốn của mình một cách khái quát. Về chính sách thương mại, bà có khả năng sẽ tiếp tục cách tiếp cận “sân nhỏ, hàng rào cao” của chính quyền Biden, áp dụng mức thuế quan có mục tiêu cụ thể hơn cho các ngành công nghiệp cụ thể với cách tiếp cận ít đối đầu hơn so với cách tiếp cận do ông Trump đề xuất.
Về chính sách thuế, bà Harrisđã đề xuất tăng thuế thu nhập đối với những người có thu nhập cao nhất, tăng thuế đối với nhóm có mức tăng vốn cao nhất và tăng thuế đối với các tập đoàn, trong khi việc giảm thuế dành riêng cho các ngành chiến lược và các ngành công nghiệp sạch.
Bà muốn hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và các hộ gia đình nghèo ứng phó với chi phí sinh hoạt gia tăng. Nói chung, các chính sách kinh tế mà bà đề xuất có mục tiêu cụ thể hơn và ít cực đoan hơn so với ông Trump – và có khả năng ít gây ra lạm phát cho nền kinh tế Mỹ.
Không giống như các đề xuất của ông bà Trump về việc Tổng thống giám sát nhiều hơn đối với các quyết định về chính sách tiền tệ, Harris đã ủng hộ sự độc lập đang diễn ra của Fed. Bà cũng không đề xuất bất kỳ biện pháp nào để đơn phương phá giá đồng đô la Mỹ, một đề xuất mà Trump cũng đã đưa ra nhiều lần.
Cần tập trung nhiều hơn vào việc kiềm chế sự gia tăng nợ công của Mỹ
Một điểm đáng thất vọng là cả hai ứng cử viên Tổng thống đều không tập trung nhiều vào sự suy giảm ngày một nhiều hơn về triển vọng tài chính của Mỹ. Nợ công chưa thanh toán của quốc gia này đã tăng vọt từ dưới 20 nghìn tỷ đô la Mỹ trước khi đại dịch COVID-19 bắt đầu vào năm 2020, lên mức hiện tại là khoảng 30 nghìn tỷ đô la Mỹ.
Văn phòng Ngân sách Quốc hội đã dự báo một bước tăng vọt hơn nữa trong nợ công chưa thanh toán có thể vượt quá 50 nghìn tỷ đô la Mỹ, hoặc 120% tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ, vào năm 2034.
Nợ tăng sẽ có tác động tiêu cực rộng rãi đến nền kinh tế Mỹ.
Với nợ cao hơn, tăng trưởng kinh tế có khả năng sẽ chậm lại vì ngày càng nhiều doanh thu do Kho bạc Mỹ thu được sẽ được sử dụng để trả lãi, thay vì phục vụ nhu cầu dài hạn của nền kinh tế nước này.
Các cơ quan xếp hạng tín dụng đã gợi ý rằng việc hạ xếp hạng tín dụng có chủ quyền của Mỹ có thể xảy ra trong trung hạn nếu tình trạng nợ tài chính xấu đi không được kiểm soát.
Bất kể ai thắng cử, Tổng thống tiếp theo sẽ cần phải nỗ lực nhiều hơn để kiềm chế sự gia tăng liên tục của nợ công Mỹ.
Ảnh hưởng gì đối với Đông Nam Á?
Đối với các nền kinh tế trong khu vực, các chính sách của ông Trump có thể dẫn đến một kịch bản lạm phát mới, điều đó có thể góp phần làm cho lãi suất khó điều chỉnh hơn và góp phần củng cố sức mạnh của đồng đô la Mỹ.
Các chính sách đối ngoại và thương mại mang tính đối đầu với Trung Quốc của ông Trump cũng có thể làm tăng rủi ro địa chính trị trên toàn khu vực. Có rủi ro kéo theo là ông có thể kìm hãm sự phục hồi của tăng trưởng và dòng chảy thương mại đối với Trung Quốc và trên khắp Đông Nam Á.
Điều này có thể khiến các chính quyền khu vực và ngân hàng trung ương phải hiệu chỉnh lại chính sách tài khóa và tiền tệ tương ứng của họ vào năm 2025.
Hiện tại, tăng trưởng kinh tế và triển vọng thương mại của Đông Nam Á vẫn tươi sáng nhờ sự phục hồi của chi tiêu bán lẻ và xuất khẩu hàng điện tử trên toàn khu vực. Hầu hết các quốc gia trong khu vực dự kiến sẽ chứng kiến tăng trưởng GDP và sức mạnh tiền tệ cao hơn vào năm 2025.
Về lâu dài, các xu hướng lớn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế khu vực như dân số trẻ, tầng lớp trung lưu đang phát triển, hoạt động thương mại xuyên biên giới và hội nhập sâu rộng hơn trong các ngành công nghiệp khu vực sẽ tạo tiền đề cho tăng trưởng mạnh mẽ hơn.
Trong những năm tới, chúng tôi dự báo dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Đông Nam Á sẽ tăng thêm 38 phần trăm lên 312 tỷ đô la Mỹ vào năm 2027 và lên 373 tỷ đô la Mỹ vào năm 2030.
Trong bối cảnh bất ổn sắp tới đối với thương mại toàn cầu phát sinh từ cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, điều quan trọng là phải lưu ý đến mối quan hệ thương mại mạnh mẽ và hỗ trợ được thiết lập bởi Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Quan hệ đối tác kinh tế toàn diện khu vực neo giữ các quốc gia ASEAN trong một hiệp định thương mại mạnh mẽ với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc và New Zealand. ASEAN cũng dự kiến sẽ làm mới hiệp định thương mại tự do lâu đời của mình với Trung Quốc.
Việt Nam: GDP quý 3 tăng mạnh bất chấp bão Yagi
Triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ của Việt Nam vẫn rõ ràng cho đến nay. GDP thực tế của Việt Nam tăng trưởng mạnh hơn dự kiến trong quý 3, tăng vọt lên 7,4% – tốc độ nhanh nhất kể từ quý 3 năm 2022.
Với hiệu suất quý 3 mạnh mẽ đáng ngạc nhiên bất chấp tác động của cơn bão Yagi, chúng tôi kỳ vọng tăng trưởng cả năm của Việt Nam sẽ đạt 6,4 % – tăng so với dự báo trước đó của chúng tôi là 5,9 %.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) có thể sẽ áp dụng cách tiếp cận có trọng tâm hơn để hỗ trợ cá nhân và doanh nghiệp, thay vì triển khai một công cụ rộng rãi trên toàn quốc như cắt giảm lãi suất.
Do đó, chúng tôi dự đoán NHNN sẽ duy trì lãi suất tái cấp vốn ở mức hiện tại là 4,5 phần trăm và trọng tâm sẽ là tạo điều kiện cho tăng trưởng cho vay. Tương tự như các loại tiền tệ khác trong khu vực, đồng Việt Nam dự kiến sẽ tiếp tục tăng giá ổn định trong những tháng tới so với đồng đô la Mỹ.
Bất chấp triển vọng không chắc chắn từ cuộc bầu cử Tổng thống , Đông Nam Á sẽ vẫn là khu vực ổn định cho tăng trưởng kinh tế và các cơ hội thương mại mạnh mẽ.
Ý Nhi lược ghi
(*)Trưởng bộ phận Chiến lược thị trường, Khối Nghiên cứu thị trường và Kinh tế toàn cầu, Ngân hàng UOB (Singapore)